Thuốc lãi suất cao cho “bệnh”

Lãi suất vay ngân hàng đang tăng cao. Ảnh: Hoàng Hà-Lãi suất thấp và sự hỗ trợ của Chính phủ là nguyên nhân chính khiến nhu cầu tín dụng tăng vọt trong năm 2009. Cuối năm 2008 và đầu năm 2009, lãi suất cho vay ngân hàng giảm, hạn mức tối đa là 21% / giao dịch, trong đó năm 2008 là 12,75%. Từ tháng 2/2009 đến tháng 11/2009, với mức lãi suất tối đa hàng năm là 10,5% và chính sách hỗ trợ lãi suất 4%, lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh không thấp hơn 4,5% đến 6,5%. Chưa kể đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chỉ cần vay vốn với lãi suất 0%.

Tháng 12/2009, lãi suất cho vay sản xuất và thương mại cao nhất là 12%, nhưng do được hỗ trợ lãi suất nên thực tế công ty phải trả chỉ khoảng 8% / năm. – Cho vay tiêu dùng cá nhân chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, lãi suất cao nhất thường từ 12 đến 16,5% / năm, tháng 12/2009 chỉ còn 15 – 17% / năm, tương đương với mức lãi suất cao nhất thực hiện trong các năm 2005, 2006 và 2007 (16,2 -16,6% / năm). Mặc dù cao hơn lãi suất cho vay sản xuất và thương mại, doanh số cho vay tiêu dùng cá nhân cũng tăng lên rất nhiều do nhu cầu đầu tư nhà ở và chứng khoán ngày càng tăng.

Các biện pháp khác để kích thích đầu tư và tiêu dùng (ngoại trừ hỗ trợ lãi suất) Chính phủ cũng đã làm tăng đáng kể nhu cầu tín dụng ngân hàng trên đầu người của nền kinh tế. Có những lý do khác, chẳng hạn như: chính sách ưu đãi, khuyến mại và tiếp thị của ngân hàng và thói quen vay tiền để sản xuất kinh doanh của người dân. Kinh doanh đời sống hàng ngày – một chính sách tín dụng cởi mở hơn sẽ làm tăng nhu cầu vốn, nhưng cũng sẽ khiến các ngân hàng gặp rủi ro lớn hơn. Nếu số âm của lần cấp tín dụng tăng lên, thì nhu cầu tín dụng sẽ tăng lên.

– Chưa loại trừ các nguyên nhân khác khiến chính sách tỷ giá không linh hoạt, có thể dẫn đến hy vọng tỷ giá tăng, có thể nhiều công ty thay vì bán ngoại tệ, nhưng chờ giá lên cao lại đi vay đồng Việt Nam để giữ ngoại tệ .

Cầu tín dụng vượt quá cung sẽ làm cho lãi suất thị trường tăng. Tất nhiên, khi lãi suất tăng thì bản thân lãi suất cũng trở thành yếu tố làm giảm cầu tín dụng, nhưng điều này sẽ làm giảm nhu cầu vay mới, đối với các hợp đồng, cam kết tín dụng cũ sẽ có nhiều người vay. Có thể chịu lãi suất cao do không thể ngừng hoặc ngừng sản xuất, công ty, dự án đầu tư.

Nhu cầu tín dụng ngân hàng tăng mạnh, để đáp ứng được yêu cầu này, hệ thống thể chế tín dụng phải được củng cố. Huy động tiền gửi. Nếu Ngân hàng Quốc gia nới lỏng chính sách tiền tệ và tạo đủ điều kiện cho các tổ chức cho vay đáp ứng nhu cầu vay của nền kinh tế thì sẽ không có cạnh tranh về lãi suất. Nó cũng không thúc đẩy tiền gửi. Cũng không có áp lực tăng giới hạn trên của lãi suất và ngay cả khi các khoản vay được phép vượt quá giới hạn trên, không có lãi suất nào vượt quá giới hạn trên.

Ngân hàng Quốc gia nới lỏng chính sách tiền tệ để tăng tín dụng. So với năm 2008, năm 2009 là 38% chắc chắn là không đủ nên hệ thống các tổ chức tín dụng không đủ nguồn huy động tiền gửi để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. — Các tổ chức tín dụng không thể tăng lãi suất, nếu lãi suất đầu ra (và chi phí vốn vay) không tăng thì lãi suất tiền gửi đầu vào (và thúc đẩy). Hệ thống lãi suất tối đa không cho phép tổ chức tín dụng tăng lãi suất cho vay sản xuất, hoặc gián tiếp cho phép tổ chức tín dụng tăng lãi suất huy động.

Đã xây dựng hai hệ thống lãi suất (giới hạn tối đa và tối đa), ví dụ, việc vượt giới hạn tối đa tạo kẽ hở cho các tổ chức cho vay tăng lãi suất cho vay so với yêu cầu về vốn trên giới hạn trên của lãi suất cho vay. Phần thu nhập tăng thêm do cho vay vượt giới hạn trên của lãi suất có thể giúp các tổ chức tín dụng tăng lãi suất và thúc đẩy huy động tiền gửi cạnh tranh với nhau. Một khi lãi suất và các hoạt động khuyến mại tiền gửi tăng, chi phí đầu vào lại tăng, buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay của các đối tượng được phép cho vay, và yêu cầu lãi suất cho vay cao hơn. Trần lãi suất. -Việc thực hiện hai hệ thống lãi suất cũng có thể dẫn đến hành vi tiêu cực hoặc bất hợp pháp. Hiệu quả của các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát các hành vi này chưa cao nên việc các tổ chức tín dụng thực hiện được các hành vi này sẽ thúc đẩy cạnh tranh lãi suất.

Bắt đầu từ tháng 2 năm 2009, cuộc cạnh tranh về lãi suất. Các dấu hiệu rõ ràng tăng dần lên. Vào cuối tháng 11 năm 2009, khi thời hạn chính phủ thực hiện chính sách trợ cấp lãi suất 4% / năm sắp đến, các công ty và người đi vay có thể hy vọng rằng Ngân hàng Thế giới sẽ duy trì một mức lãi suất ổn định.Lãi suất tăng từ 10,5% / năm lên 12% / năm, chưa kể hàng loạt đợt lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu cũng tăng theo. Ngoài ra, việc hạ mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2009 xuống không quá 27% sẽ làm tăng cạnh tranh lãi suất. —— Ngay cả khi lãi suất cao, cạnh tranh lãi suất ngân hàng tự nó sẽ không làm tăng tổng tiền gửi. Hệ thống, nhưng nó chỉ là nguồn tiền gửi luân chuyển giữa các ngân hàng. Cạnh tranh lãi suất sẽ không làm tăng lợi nhuận mà chỉ khiến hệ thống chịu rủi ro lớn hơn, làm tăng thu nhập của người gửi tiền do tăng gánh nặng lãi suất cho doanh nghiệp và người đi vay. Đầu tiên, một giải pháp được đưa ra là ổn định và giảm dần lãi suất ngân hàng để cân đối cung cầu tín dụng ngân hàng. Cân đối cung cầu vốn tín dụng ngân hàng có thể giảm cầu, tăng cung hoặc kết hợp.

Giảm nhu cầu tín dụng nên là lựa chọn hàng đầu, Ngân hàng Quốc gia có thể yêu cầu các nhóm bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng. Làm như vậy sẽ không chỉ làm giảm nhu cầu tín dụng mà còn giúp các tổ chức cho vay an toàn hơn, làm cho tín dụng được cấp hiệu quả hơn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng tốt hơn. Kinh tế, làm giảm tác dụng phụ của lạm phát.

Nguồn cung tín dụng ngân hàng tăng lên gần như đồng nghĩa với việc lượng tiền mà các ngân hàng huy động được từ nền kinh tế và lượng tín dụng mà ngân hàng quốc gia cung cấp cho quốc gia đang tăng lên. . Hệ thống tổ chức tín dụng. Số tiền gửi của toàn hệ thống tổ chức tín dụng gần đến hạn mức tối đa.

Do đó, để tăng cung tín dụng ngân hàng, Ngân hàng Quốc gia phải nới lỏng chính sách tiền tệ của mình. Mặt bằng lãi suất của các tổ chức tín dụng có thể vẫn ở mức hiện nay, nhưng cần tăng lượng cung tiền, tức là tăng cung tiền cơ sở (MB) để tăng cường mở rộng tín dụng cho các ngân hàng. Trước khi Ngân hàng Quốc gia tăng cung tiền, vui lòng giảm tỷ lệ dự trữ, có thể về 0%. Chính sách tiền tệ nới lỏng có thể gây áp lực lên lạm phát, vì vậy hãy cẩn thận. Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng tín dụng trong ba tháng đầu năm cho phép Ngân hàng Quốc gia xem xét nới lỏng chính sách ở một mức độ nhất định để đảm bảo đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng 25%. – Đồng thời với hai quan điểm trên, nếu lãi suất thị trường không đạt được mức mong muốn thì phải kết hợp giải pháp thứ ba, đó là hệ thống lãi suất cao nhất. Trên thực tế, không cần xóa bỏ hệ thống lãi suất tối đa vì sẽ không làm mất quyền tự do thống nhất về lãi suất mà có thể góp phần quan trọng trong việc bảo đảm lãi suất cho vay cho các tổ chức tín dụng. Tín dụng đạt mức mong muốn. Tuy nhiên, giải pháp này đòi hỏi công tác kiểm tra, giám sát để phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm hệ thống trần lãi suất, vi phạm phải tốt và hiệu quả.

Hồ Thụy Sĩ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *