Sau SBS, liệu nhà đầu tư có “nghỉ hưu” với công ty khác?

Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Tong Tian Tian (MẸO: SBS) gần đây chứng kiến ​​hàng loạt sự cố “mất trật tự”.

Theo báo cáo tài chính gần đây, tình hình tài chính khá khốn đốn. Trong hầu hết các trường hợp, SBS ghi nhận khoản lỗ thêm gần 681 tỷ rupiah trong quý đầu tiên, đây là một con số đáng kinh ngạc đối với các nhà đầu tư và là bài học đau đớn cho những cổ đông đã mua cổ phiếu này. .

Dưới góc độ BCTC, có thể thấy áp lực tài chính của SBS ngày càng nghiêm trọng do các nguyên nhân: gia tăng quá mức các hoạt động kinh doanh rủi ro, như trích lập biên độ quá mức. Hoạt động đầu tư an toàn, tăng trưởng mạnh, việc triển khai hợp tác đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, hợp tác đầu tiên mà SBS xác định lợi nhuận… đây đều là những hoạt động tiềm ẩn rủi ro rất lớn.

Sử dụng nợ vượt quá khả năng tài chính của bạn. Để tài trợ cho hoạt động gia tăng mạnh mẽ này, SBS đã sử dụng thêm đòn bẩy tài chính, cụ thể là nợ. Điều này khiến hoạt động của SBS trở nên rủi ro hơn.

Việc “thiếu” dự trữ đầu tư dẫn đến thua lỗ nặng. Trong khoảng thời gian từ nửa cuối năm 2011 đến cuối quý đầu tiên, khoản lỗ của SBS đã tăng lên một cách bất ngờ vì mặc dù thị trường đang suy giảm nhưng nó không quá mạnh trong giai đoạn này. Những năm trước, khi thị trường giảm mạnh, lượng dự trữ của SBS rất thấp.

Nhiều khả năng do giấu lỗ nên SBS không thể thực hiện các hành động giảm thiểu rủi ro như giảm lỗ, thanh lý các khoản đầu tư kém hiệu quả, thu nợ ký quỹ … khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn khi thị trường xấu đi.

Qua BCTC quý II có thể thấy, nhiều công ty chứng khoán đã đầu tư ngắn hạn dài hạn và các khoản phải thu lớn nhưng tỷ lệ trích lập dự phòng tương đối thấp.

Nguyên nhân có thể là do các công ty chứng khoán này gần đây đã tăng cường đầu tư, cho vay hoặc danh mục đầu tư vào chứng khoán blue chip (như trái phiếu, hóa đơn, v.v.). Tuy nhiên, các công ty chứng khoán này có thể chưa thu xếp hết, kể cả việc đầu tư vào chứng khoán bán khống, ủy thác đầu tư… hoặc có thể cố tình che giấu những khoản lỗ tiềm ẩn.

Liệu hiện tượng “đẩy lùi” bất ngờ thua lỗ khủng như SBS có lặp lại ở các công ty chứng khoán khác? Để trả lời câu hỏi này, cần phải xem xét kỹ các báo cáo tài chính qua các thời kỳ để có thể xác định chính xác các thủ tục kế toán tài chính của các công ty chứng khoán này. – Các công ty chứng khoán có vốn đầu tư ngắn hạn lớn (trên 100 tỷ đồng): Cần lưu ý rằng khoản mục tiền mặt phải được loại trừ khỏi tiền gửi ngân hàng trên ba tháng, đây được coi là khoản đầu tư ngắn hạn và tương đối an toàn, thường không có tiền. Tỷ lệ trích lập dự phòng càng thấp thì rủi ro tiếp tục thua lỗ càng lớn.

Công ty chứng khoán có khoản đầu tư dài hạn lớn (trên 100 tỷ đồng): Đây là yếu tố cần thiết, nhất là khi cơ sở cho các quy định về chứng khoán OTC chưa rõ ràng. Tỷ lệ trích lập dự phòng càng thấp thì rủi ro phát sinh thêm càng lớn.

CTCK có số lượng lớn các khoản phải thu khác: thông thường khoản này phản ánh số dư các khoản cho vay ký quỹ, hợp đồng hợp tác đầu tư chứng khoán … là khoản rủi ro cao khi thị trường giảm giá, tuy nhiên thông tin định giá rất Khó xác định.

Các công ty chứng khoán sử dụng nợ nhiều nhất: Các công ty chứng khoán thường có mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức tài chính. Phê duyệt và phê duyệt khoản vay. Tuy nhiên, tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao cũng cho thấy các công ty chứng khoán gặp rủi ro rất lớn. -(Việt Nam)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *