Khó khăn cho người gửi tiền do lãi suất giảm

Jamie Lee Curtis (Jamie Lee Curtis) từng đóng vai một cô gái điếm trong bộ phim hài đầu tư tài chính nổi tiếng thập niên 80 “Trading Places” (Địa điểm giao dịch), anh rất có ý thức tiết kiệm cho tương lai. Cô đầu tư 42.000 đô la Mỹ vào tín phiếu để hưởng lãi suất, đây là một kênh đầu tư vốn an toàn và tiện lợi cho tài tử.

Nhưng nếu cô ấy sử dụng chiến lược này bây giờ, cô ấy sẽ cảm thấy vô vọng. Ở Mỹ, lãi suất tín phiếu kỳ hạn một năm là 0,13% nên thu nhập hàng năm của cô chỉ là 55 đô la. Nếu cô ấy tái đầu tư khoản thu nhập này, sẽ mất hơn 530 năm để số tiền của cô ấy tăng gấp đôi. Tiền gửi ngân hàng đã từng tạo ra lợi nhuận tương đối, đầu tư quỹ tương hỗ và các phương pháp ngắn hạn khác thì không. Tỷ lệ lạm phát danh nghĩa thấp hơn 30 năm trước, nhưng lãi suất thực tế cũng thấp hơn. Covid-19 đã làm trầm trọng thêm vấn đề này. Năm nay, lợi suất danh nghĩa kỳ hạn 10 năm tại Hoa Kỳ, Anh và Đức đều đạt mức thấp kỷ lục.

Tiết kiệm có thể giải quyết vấn đề này theo ba cách. Họ có thể tiết kiệm ít hơn và chi tiêu nhiều hơn. Một cách khác là tiết kiệm nhiều tiền hơn để bù lại lợi nhuận thấp hơn. Lựa chọn thứ ba là đầu tư nhiều tiền hơn vào các tài sản rủi ro, chẳng hạn như cổ phiếu.

Một ông già trên phố mua sắm Nhật Bản. Ảnh: Agence France-Presse.

Thật không may, lịch sử không cho chúng ta nhiều câu trả lời hữu ích. Bạn có thể nghĩ rằng ngân hàng trung ương đang xem xét sử dụng lãi suất thấp để kích thích tiêu dùng và giảm tích trữ của cải. Nhưng điều này đã không thực sự hiệu quả.

Ở Đức, ngay cả trong những điều kiện tối ưu, ảnh hưởng của lãi suất đến hành vi của người tiết kiệm vẫn chưa rõ ràng. Ngân hàng Bundesbank phát hiện ra rằng theo thời gian, lãi suất không còn là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với hành vi tiết kiệm.

Nghiên cứu của Allianz cũng phát hiện ra rằng các yếu tố khác cũng đóng một vai trò nhất định. Các vai trò quan trọng hơn Ví dụ, chính phủ càng chi nhiều tiền cho các chi tiêu xã hội thì càng ít người tiết kiệm được vì họ mong đợi sự giúp đỡ của chính phủ khi họ cần. Nhân khẩu học cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm. Mọi người có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn khi họ có xu hướng nghỉ hưu. Tuy nhiên, một khi họ nghỉ hưu, hầu hết mọi người đều dựa vào tiền tiết kiệm để kiếm sống, vì vậy sự gia tăng số lượng người nghỉ hưu có thể dẫn đến giảm tổng tỷ lệ tiết kiệm. Nghiên cứu của Charles Yuji Horioka thuộc Đại học Kobe cho thấy đây là nguyên nhân chính khiến tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình ở Nhật Bản sụt giảm trong thời gian dài.

Mối quan hệ dài hạn giữa lãi suất tiết kiệm, lãi suất và mức tiết kiệm, gửi tiết kiệm có vẻ thấp. Nghiên cứu của Allianz cho thấy ở châu Âu, cứ giảm lãi suất 1% thì tỷ lệ tiết kiệm sẽ tăng thêm 0,2%. Ngân hàng trung ương đã bị giáng cấp trước những tin tức bất lợi về kinh tế. Đối mặt với những thông tin kinh tế xấu như vậy, mọi người hy vọng sẽ tăng tiết kiệm.

Lo ngại về đại dịch đã giúp đẩy tỷ lệ tiết kiệm của Hoa Kỳ lên mức cao nhất mọi thời đại vào đầu năm nay. Trong tháng 8, nó vẫn ở mức tương đối cao là 14,1%. Viện Công ty Đầu tư (ICI) cho biết các quỹ thị trường tiền tệ – tiền gửi ngắn hạn – đã nhận được 115 tỷ đô la Mỹ vào tháng 3 năm nay. Andy Seeger, chủ tịch của Merrill Lynch Wealth Management, cho biết: “Họ lo lắng về sự an toàn của các quỹ.” Điều này có nghĩa là nếu bạn lo lắng về tình trạng thất nghiệp, thì việc sử dụng tiền tiết kiệm chỉ là một vấn đề nhỏ. Mục đích là để có tiền dư.

Nhưng khi cơn hoảng sợ lắng xuống, một số người gửi tiền sẽ chuyển sang các chiến lược khác, chẳng hạn như đầu tư tiền vào cổ phiếu. Do lợi suất trái phiếu và tiền mặt thấp, cổ phiếu trông hấp dẫn. Tinh thần mạo hiểm lớn hơn này là một phần của xu hướng dài hạn. Zieger nói rằng 10 đến 15 năm trước, những người nghỉ hưu giàu có ở Hoa Kỳ có thể gửi hầu hết số tiền tiết kiệm của họ vào trái phiếu đô thị. Giờ đây, họ có một danh mục đầu tư đa dạng hơn gồm cổ phiếu và trái phiếu công ty.

Tuy nhiên, không phải lúc nào các phương pháp bù đắp lãi suất thấp cũng có hiệu quả. Nó hoạt động trở lại. Ngoại lệ duy nhất là thị trường chứng khoán rủi ro ở Hoa Kỳ. Ở bên trái, các nhà đầu tư vào các cổ phiếu khác trên thị trường nhận được phần thưởng thấp hơn khi chấp nhận rủi ro như vậy. Năm 1990, cổ phiếu tăng từ 20% của cải hộ gia đình lên 30%.Nhưng khi bong bóng vỡ, sự nhiệt tình của các nhà đầu tư cá nhân cũng yếu đi. Năm 2015, cổ phiếu chỉ chiếm 19% tài sản hộ gia đình. Thị trường chứng khoán Nhật Bản thậm chí còn tồi tệ hơn so với năm 1989. Sayuri Shirai của Đại học Keio tuyên bố rằng khoảng một nửa tài sản tài chính hộ gia đình vẫn là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng. Ngoài ra, không phải tất cả các nhà đầu tư đều giống nhau. Ngay cả ở Hoa Kỳ, lợi nhuận của thị trường chứng khoán chủ yếu được sử dụng bởi người giàu. 1% giàu nhất sở hữu 56% thị trường chứng khoán, so với 46% vào năm 1990. 10% giàu nhất sở hữu 88% thị trường chứng khoán. Điều này có nghĩa là hầu hết người Mỹ vẫn chi tiền cho những trường hợp khẩn cấp. Người giàu mới có khả năng đầu tư vào cổ phiếu.

Ngay cả khi không mua cổ phiếu, người lao động bình thường ở các nước giàu có nhiều khả năng đầu tư vào các tài sản rủi ro hơn bình thường. Thông qua kế hoạch nghỉ hưu. Nhưng xu hướng rất yếu. Đồng thời, do sự thay đổi của thị trường, khả năng thanh toán của hệ thống hưu trí dựa trên tiền lương bị suy giảm.

Mối nguy nằm ở chỗ lo lắng về những rủi ro liên quan đến những thay đổi không đồng đều. Nhưng nhiều người không được tư vấn về tài chính và không biết nên chuẩn bị cho người già bao nhiêu tiền. . Nó đã xảy ra ở Nhật Bản. Horioka cho biết: “Việc giảm lãi suất xuống gần bằng 0 đã làm giảm đáng kể thu nhập lãi mong đợi của những người về hưu, dẫn đến tiết kiệm vượt quá kỳ vọng.” — Chính phủ từ lâu đã khuyến khích người dân trả lương hưu, nhưng lãi suất thấp đã thay đổi thành công Khó khăn. Khi lãi suất tiết kiệm sớm muộn gì cũng biến mất, cuộc sống của những người gửi tiết kiệm sẽ trở nên khó khăn hơn.

Họp thường niên (theo The Economist)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *